Có lần gặp nhau trên mạng, em bảo tôi rằng, hơn mười năm ra trường, em chưa một lần trở lại Quy Nhơn, phần vì đường xa cách trở, phần vì công việc bộn bề rồi bếp núc áo cơm bận bịu hàng ngày. Cái thành phố một thời tuổi trẻ buồn vui vì vậy cứ quắt quay đi về trong nỗi nhớ của em, gần như có thể giơ tay mà chạm được nhưng lại thăm thẳm ngái xa, thực như mới chỉ ngày hôm qua và mà mịt mờ hư ảo.
Nào đâu chỉ riêng em. Ngay cả tôi, hơn mười năm ra trường, biết bao lần trở lại, rộng dài thời gian có, thoáng qua chốc lát có, vậy nhưng thỉnh thoảng vẫn nhớ Quy Nhơn đến nao lòng. Rồi bạn bè chúng ta, những người đã đến và để lại một phần tuổi trẻ của mình nơi thành phố biển này, có ai không nhung nhớ. Chẳng thế mà mỗi lần ai đó trở về Quy Nhơn rồi đưa lên facebook hình ảnh trường xưa, thầy cô giáo cũ, hay đơn giản chỉ là một góc phố thân quen thủa nào, cả đám chúng mình lại một phen xuyến xao, bồi hồi tập thể.
Trong những câu chuyện vẩn vơ không đầu không cuối ấy, em có nhận ra rằng, dù mỗi chúng ta có cho mình một Quy Nhơn khác nhau, nhưng sâu thẳm trong trái tim mỗi người đều ấp ủ một tình yêu trọn vẹn với thành phố này.
Em hỏi tôi nhớ gì về Quy Nhơn? Nhiều lắm. Tôi nhớ mùa thu khai giảng năm 2001 lạ lẫm làm quen với những người bạn cùng lớp quê trải dài dọc khúc ruột miền Trung nắng gió và cả những người bạn đến từ vùng Tây Nguyên huyền ảo vốn chỉ biết qua sử thi hay những trang văn của Nguyên Ngọc. Nhớ những buổi giao lưu văn nghệ chào mừng 20-11, 26-3 nhọc nhằn chuẩn bị nhưng ăm ắp niềm vui. Nhớ những trận bóng đá bầm dập ngày mưa trên cái sân cát ở Công viên Thiếu nhi, nơi đám con trai lớp văn chúng tôi thua nhiều hơn thắng. Nhớ những chuyến dã ngoại Ghềnh Ráng, Hầm Hô mà đám SV nghèo phải “ỏm tỏi” bàn chuyện đóng tiền. Nhớ những trò quậy phá đợt học quân sự ở An Sơn, Phù Cát. Nhớ những buổi chiều ngồi cùng đám bạn uống rượu ở Eo Nín Thở mơ về toàn những chuyện viển vông.
Tôi nhớ những thầy cô giáo đã dạy chúng tôi, không chỉ thầy cô khoa Văn mà cả các khoa Ngoại ngữ, Lịch sử, Chính trị, Địa…Mỗi người trong số họ bao giờ cũng kèm với rất nhiều giai thoại mà đám SV ngay từ năm nhất đã được các anh chị khóa trước truyền tai. Họ không chỉ khai mở cho tôi những chân trời kiến thức mới mà còn dạy tôi nhiều điều về cuộc sống, từ sự giản dị trong sinh hoạt, chân thành trong cách đối xử với những người xung quanh đến thái độ nghiêm túc, chỉn chu trong công việc… Dù ít hay nhiều, mỗi thầy cô ở Quy Nhơn đều để lại trong tôi những kỷ niệm sâu sắc. Để đến bây giờ nhìn lại, nhiều khi tôi vẫn thấy trong lời ăn tiếng nói, trong hành động của mình có bóng dáng ảnh hưởng của những người thầy mà tôi hằng yêu quý, ngưỡng mộ.
Tôi nhớ một không gian cà phê nhỏ với những bộ bàn ghế cũ kỹ, tróc sơn trên đường Hàm Nghi mà người anh khoa Sử đã dẫn tôi đến lần đầu để suốt 4 năm đại học và cả bây giờ mỗi lần trở lại Quy Nhơn, tôi đều tìm đến. Nơi ấy, tôi đã kể cho bạn bè nghe về ước mơ được trở thành một thầy giáo, sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu để truyền cho học trò ngọn lửa đam mê với văn học, giống như điều mà người thầy của tôi hồi cấp hai đã làm. Nơi ấy, tôi đã ngồi với cô bạn gái miền Trung, mối tình đầu đầy ngọt ngào thời SV. Nơi ấy, tôi đã thăng trầm cùng số phận những nhân vật trong tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu, Mạc Ngôn, Cao Hành Kiện, Giả Bình Ao…Nơi ấy, tôi đã lần đầu tiên tiếp xúc với những vần thơ viển vông, cay đắng, u buồn nhưng chan chứa yêu thương của Lưu Quang Vũ mà cô bạn ngoài Hà Nội gửi vào. Những vần thơ mà cho đến bây giờ vẫn như một thứ “thánh kinh” của riêng tôi.
Tôi nhớ những ngày lang thang, khi một mình, khi cùng bạn bè khám phá mảnh đất Bình Định đầy trầm tích văn hóa-lịch sử. Những chuyến đi ấy, tôi đã ghé Quy Hòa nơi Hàn Mặc Tử nằm điều trị bệnh những năm cuối đời. Tôi đến Ghềnh Ráng thăm nơi Hàn yên nghỉ và gắng mường tượng về cái mỏm đá nào đó giữa muôn trùng đá mà thi sĩ từng ao ước: Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng - Ngồi lên để thả cái hồn thơ. Tôi cũng đã đến vạn Gò Bồi thăm nhà lưu niệm Xuân Diệu; đến Phước Lộc - Tuy Phước thắp nhang trên bàn thờ Đào Tấn - “Hậu tổ” nghệ thuật tuồng Việt Nam; đến Tam Quan để hiểu thêm về câu ca dao: Công đâu công uổng công thừa -Công đâu gánh nước tưới dừa Tam Quan. Và dĩ nhiên, tôi không thể không ghé thăm những tháp chàm mang dấu thời gian mà Chế Lan Viên từng ám ảnh, từ tháp Đôi ở Quy Nhơn, tháp Bánh Ít, Cánh Tiên ở Tuy Phước đến tháp Dương Long, Thủ Thiện trên đất Tây Sơn…Những chuyến lang bạt ấy khiến tôi thêm hiểu, thêm yêu mảnh đất mà mình đang học tập. Thậm chí có những lúc, tôi đã tính sẽ ở lại Quy Nhơn - Bình Định sau ngày ra trường để mãi gắn bó với mảnh đất thân thương, hiền hòa này.
Sau 4 năm sướng vui buồn khổ đời SV với Quy Nhơn, “bọn người tứ xứ” chúng tôi ra trường, bắt đầu cuộc mưu sinh nhọc nhằn. Lúc này lại mới nhớ lời thầy Xuân dạy môn Môi trường năm nhất: “Vào đại học mà đông đồng hương thì vui nhưng sau này ra trường mới thấy khổ”. Nỗi khổ này chắc bạn bè lớp tôi quê Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh hiểu rõ nhất khi hầu hết không xin được việc làm ở quê nhà, phải tứ tán vào Tây Nguyên, xuống tận Bình Phước xin việc. Mà nào phải ai cũng xin được việc ngay, có người mãi đôi ba năm nằm nhà thất nghiệp mới tìm được chỗ làm. Thậm chí, có cô bạn quê Thanh Hóa phải lặn lội mãi tận Cà Mau để thỏa ước mơ được đứng trên bục giảng.
Tôi may mắn xin được chân phóng viên một tờ báo ở Tây Nguyên. Công việc làm báo giúp tôi có nhiều cơ hội đặt chân đến nhiều tỉnh thành. Ở đó, tôi gặp lại bạn bè mình, mừng mừng tủi tủi. Bên ly cà phê hay chén rượu hàn huyên, chúng tôi đều ôn lại kỷ niệm của những tháng năm tuổi trẻ ở Quy Nhơn, hỏi thăm nhau về những thầy cô yêu quý hay những người bạn từ lâu không liên lạc. Tưởng như khoảng cách địa lý và những tháng năm đằng đẵng cách xa chưa bao giờ tồn tại.
Mới ngày nào khi chúng tôi bước vào năm thứ nhất, Đại học Quy Nhơn còn đang chuẩn bị kỷ niệm 25 năm thành lập. Vậy mà giờ đã sắp 40 năm. Bạn bè lại nhắn tin, gọi điện cho nhau hẹn ngày về lại Quy Nhơn để thăm lại ngôi trường 4 năm gắn bó, để gặp lại những thầy cô mà ta hằng yêu mến, để lang thang trên những con phố thân quen một thời hai buổi đi về, để ghé quán cà phê thủa SV gọi một ly đen nghe kỷ niệm rơi tí tách, để thả bàn chân trần xuống mép nước biển trước Công viên Thiếu nhi mặc sóng vỗ về…
Quy Nhơn, chẳng biết ai đã đặt tên cho thành phố. Trường Đại học Quy Nhơn, chẳng biết ai đã đặt tên cho trường. Chỉ biết rằng, ai đã ở Quy Nhơn một lần, dù có đi nơi đâu rồi cũng muốn tìm về.
LÊ TIẾN DŨNG
Lớp TH Văn K.24 B (2001 - 2005)