Trong cuộc sống mỗi người, có những miền yêu thương đã trở thành mảng ký ức tâm hồn, thành hành trang tinh thần định hình mãi cùng ta trên tấm ảnh thời gian. Một trong những miền yêu thương ấy là mái trường mến thương với những kỉ niệm đẹp nhất. Nếu mái trường phổ thông là nơi ươm mầm ước mơ thì mái trường đại học là nơi chắp cánh cho những ước mơ ấy.
Mùa thu 1996, phố biển Quy Nhơn bỗng nhiên rạng rỡ lạ thường. Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn (nay là Đại học Quy Nhơn) như người mẹ hiền giang vòng tay chào đón khoảng 250 đứa con (Khoa Ngữ văn khoá 19) từ khắp mọi miền đất nước về đây tụ hội dưới mái nhà chung. Từ khoá 18 trở về trước, mỗi khoá độ vài chục đến 100. Chẳng biết vì sao đến khoá 19, dân số đột ngột gia tăng. Cũng vì vậy, cơ sở vật chất nhà trường quá tải trông thấy. Trường phải thuê doanh trại quân đội (ở đầu đường Tăng Bạt Hổ) cải tạo lại làm khu kí túc xá và giảng đường cho chúng tôi ở và học tập - gọi là khu D. Dù trường rất cố gắng nhưng điều kiện ăn ở và học tập tại nơi chữa cháy vẫn không sao bằng được ở trường chính.
Hai năm trôi qua, nửa quãng đời SV chúng tôi gắn bó ở nơi ấy, để rồi khi chia xa cũng dâng lên nhiều lưu luyến. Từ năm 3, chúng tôi chính thức được về với Đại học Sư phạm Quy Nhơn yêu dấu. Cảm giác được về với mẹ hiền khi điều kiện đã khá hơn, những ngày tháng thiếu thốn đang lùi xa, lòng chợt lâng lâng khó tả. Đêm đầu tiên ở KTX khu B không sao chợp mắt được. Nghe sóng biển vỗ rì rào bên tai êm ái mà cứ ngỡ mình như đang nằm trên bờ cát tỉ tê, tâm sự cùng … trăng.
Có thể nói, hiếm ngôi trường nào có địa thế đẹp đến nao lòng như Đại học Sư phạm Quy Nhơn. Khuôn viên rộng, thoáng đãng luôn rợp bóng cây xanh, kiến trúc vừa cổ kính vừa hiện đại lại vô cùng lãng mạn. Trước trường là đại lộ An Dương Vương, công viên thiếu nhi rồi đến biển. Những lúc sáng sớm hay chiều tà, được ngâm mình dười dòng nước mát mặn, bao căng thẳng, áp lực của việc học tập dường như tan biến. Những đêm trăng sáng, cầm tay ai dạo bước trên bờ cát đến mỏi nhừ đôi chân, sương xuống ướt mềm mái tóc nhưng bàn tay sao ấm áp lạ! Hay những đêm đốt đuốc bằng lốp xe đạp cũ chạy bắt còng, tiếng cười nói rộn ràng hoà cùng sóng biển. Có trưa mùng 5 tháng 5 - Tết Đoan Ngọ, đúng 12 giờ, cả ngàn người nắm tay nhau nhảy ùm xuống biển, với quan niệm xả xui, đem may mắn về. Nhưng may đâu không thấy, chỉ thấy khi tắm biển về, KTX cúp nước! Vậy là rồng rắn kéo nhau đi phơi nắng cho khô người rồi mặc đại đồ vào cho kịp giờ học chiều. Có những buổi chiều mưa, ngồi trong quán cà phê Da Vàng (ngày ấy quán cà phê này trong khuôn viên của trường, gần cổng chính) nhâm nhi những giọt cà phê đắng, đếm mưa rơi, thưởng thức những tình khúc bất hủ của Trịnh Công Sơn qua giọng ca ma mị của Khánh Ly…, rồi mơ thành thi sĩ!
Lãng mạn là thế, song hiện thực vẫn là những nốt chủ đạo trong bản đàn đại học. Bốn năm ngỡ dài nhưng hoá ra không phải. Năm một lo làm quen với phương pháp học tập mới. Năm hai lo thi chuyển giai đoạn. Năm ba lo trang bị phương pháp dạy học. Năm bốn lo thực tập sư phạm rồi tốt nghiệp ra trường. Nhiều đêm thức trắng học bài hoặc viết luận văn cho kịp ngày bảo vệ, có khi quên cả… người yêu. Các phòng học của Thư viện ngày ấy vừa mở cửa ra đã không còn chỗ trống. Ai đi trễ, muốn có chỗ phải nhờ bạn đi trước rải vở để xí phần. Đông thế nhưng phòng học rất trật tự. Tất nhiên, thỉnh thoảng vẫn có một vài cái liếc mắt, khều chân để… thư giãn!
Cực mà vui nhất có lẽ là đợt học tập quân sự ở An Sơn - cách trường khoảng 20 km. Đó là nơi huấn luyện các tân binh, sau 3 tháng quân trường sẽ trở thành 1 người lính thực thụ, biên chế về các đơn vị. Do đó, chúng tôi được học tập, huấn luyện một cách bài bản, chính quy, thực hiện đầy đủ điều lệ quân đội, học cấu tạo, công dụng các loại vũ khí, học ném lựu đạn, bắn súng AK, học chiến thuật, sơ cứu thương, Thích nhất vẫn là khi được thực hành. Sau khi học chiến thuật xong, mỗi tổ chia thành 2 tiểu đội, tuỳ theo địa hình, địa vật mà áp dụng chiến thuật phù hợp, tổ chức đánh trận giả. Mỗi lần như thế, tôi lúc nào cũng xung phong đi đầu. Thể hiện tính anh hùng thì ít, chủ yếu là để nhanh… bị thương. Vì như thế sẽ được các nữ y tá dìu xuống phía sau, chăm sóc, băng bó các kiểu.
Không ai tắm hai lần trên một dòng sông (Hêraclit). Thời gian như bóng câu qua cửa, mới đó mà đã 21 năm từ khi vào trường. Có thầy cô đã thành người muôn năm cũ, có thầy cô đã chuyển trường, chuyển khoa hoặc về hưu. Những thầy cô còn lại cũng còn khoảng… một nhiệm kì. Lũ chúng tôi cũng trên dưới 40, ngày xưa là những người khách, còn giờ đây lại đưa khách sang sông.
Tập thể Văn K19B – Đêm tọa đàm 20 – 11
17 năm đưa đò trên dòng sông tri thức, mình càng yêu hơn bao lớp người qua. Vì khách sang bờ là đến với chân trời mới, đem tinh hoa dựng xây nước non nhà. Sự nghiệp trồng người bao giờ cũng cao quý, như kĩ sư thiết kế bao tâm hồn, như Prômêtê chịu xích xiềng để lấy lửa, thổi vào học trò cháy những khát vọng niềm tin.
Đã bao mùa hoa và còn nhiều mùa hoa nữa. Những ngọn nến lung linh soi sáng đường nghề, để những giấc mơ không còn là cổ tích, đưa các em sang bờ rực cháy những đam mê. Tuổi thơ qua những mùa hoa đỏ. Ai nhớ? Ai quên? Thầy vẫn đưa đò. Cuối xuống nhặt từng cành phượng nhỏ, âm thầm giữ lửa thắp ước mơ.
Chiều nay chợt ngang qua trường cũ, bao nỗi nhớ, niềm thương dâng phủ ngập lòng. Phượng vẫn đỏ, vẫn thuỷ chung, bung sắc thắm. Có chút gì làm cay mắt, rưng rưng…
ĐẶNG QUANG SƠN
Lớp SP Ngữ văn B K.19 (1996 – 2000)